1. Tiếng Việt
  2. English

(+84) 943733150 - (+84) 902873345

contactus@goodsolutions.com.vn

LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CÂY CÀ PHÊ TẠI VIỆT NAM
Tác giảgoodsolutions

LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CÀ PHÊ VIỆT NAM

 

1. Sơ lược lịch sử cà phê Viêt Nam

Nói đến cà phê Việt Nam, chắc hẳn không còn xa lạ với các tín đồ cà phê trên thế giới. Đây là đất nước có sản lượng cà phê nằm trong top 5 trên thế giới và đặc biệt, cà phê Việt Nam mang đến một hương vị quyến rũ khó tả. Nhưng về lịch sử cà phê Việt Nam, có lẽ vẫn chưa nhiều người thực sự biết đến. Để nói về những cây cà phê đầu tiên được trồng tại Việt Nam, phải kể đến năm 1857 khi người Pháp (những nhà truyền giáo người Pháp) mang đến Việt Nam từ các đồn điền nhất nhì Đông Dương cây cà phê đầu tiên. Từ đó hành trình phát triển cà phê tại Việt Nam chính thức bắt đầu. Cây cà phê đã có những trở mình mạnh mẽ, thoát khỏi các định chế bao cấp, cho đến nay giống cây trồng được ví như “kim cương đen” trở thành một trong những cây trồng có giá trị xuất khẩu cao nhất, và đưa Việt Nam lên một trong những vị trí dẫn đầu của bản đồ cà phê thế giới.

2. Khởi sự của cây cà phê ở Việt Nam

Năm 1857

Giống cà phê Arabica (Coffee Arabica) người dân Việt Nam thường gọi là “cà phê chè” là giống cà phê đầu tiên được đưa vào Việt Nam, thông qua các nhà truyền giáo Pháp. Nó đã được thử nghiệm tại các nhà thờ Công giáo ở các tỉnh phía bắc, như Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh; và sau đó lan sang một số tỉnh miền trung, như Quảng Trị và Quảng Bình. Cuối cùng, cà phê đã được đưa đến các tỉnh phía Nam của Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Tại đây người ta mới phát hiện ra rằng đây mới là vùng đất trong mơ để canh tác cà phê.

Năm 1908

Sau nửa thế kỷ kể từ khi cà phê Arabica được trồng tại Việt Nam. người Pháp lại một lần nữa mang hai loại cà phê khác là Robusta (Coffea canephora) và Exelsa(Coffee Exelsa) đến Việt Nam. Không dừng lại, người Pháp đã thử nghiệm nhiều giống khác nhau từ Congo tại Tây Nguyên, và chứng kiến sự phát triển rất tốt của cà phê ở khu vực này. Xuyên suốt cuộc chiến và cho đến năm 1986, nhiều khu vực sản xuất cà phê đã phát triển, nhưng rất chậm và sản lượng thấp. Năm 1986, tổng diện tích cả nước dành cho sản xuất cà phê chỉ khoảng 50.000 ha và khối lượng sản xuất là 18.400 tấn (chỉ hơn 300.000 bao 60 kg).

Vào những năm đầu của thế kỷ 20, với 3 giống cà phê Arabica, Robusta và Excelsa người ta trồng cả 3 loại cà phê này chung với nhau trên các đồn điền phía bắc. Với cà phê Typica với giống Arabica, cà phê Canephora với giống Robusta và cà phê Liberica cùng với giống Excelsa. Năm 1930 ở Việt nam có 5900 ha cà phê, trong đó có 4700 ha cà phê Arabica, 900 ha cà phê Excelsa và 300 ha cà phê Robusta.

Qua một thời gian dài canh tác 3 giống cà phê trên, người ta đã đưa ra được nhận xét về những vùng trồng cà phê. Kết quả cho thấy:

- Cây cà phê Arabica không cho kết quả mong muốn vì dễ bị tấn công bởi xylotrechus quadripes (sâu đục thân) và Hemileia vastatrix (Nấm gỉ sắt) phá hoại.

- Cà phê (Robusta) thì không phát triển tốt ở miền Bắc do có mùa đông nhiệt độ quá thấp so với yêu cầu sinh thái của cây này.

- Chỉ có cà phê Excelsa sinh trưởng khỏe, cho năng suất khá, song giá trị thương phẩm lại thấp.

Lúc đó có chuyên gia nước ngoài đã khuyến cáo không nên trồng cà phê Arabica ở Việt nam và chỉ trồng cà phêRobusta ở phía nam và cà phê Excelsa ở phía bắc.

Giai đoạn 1960-1970

Ở miền Bắc Việt nam, hàng loạt nông trường quốc doanh được thành lập, trong đó có hàng chục nông trường trồng cà phê, và trồng cả 3 giống cà phê cùng một nông trường. Tình hình phát triển của cà phê những năm này cũng không mấy khả quan và cuối cùng, đến đầu thập niên 70 người ta đã kết luận không trồng được cà phê ở phía bắc.

3. Công cuộc cải cách, và bước nhảy vọt về sản lượng

Năm 1975

Lúc này cả nước trên hai miền nam bắc mới chỉ có khoảng 13000 hecta với sản lượng khoảng 6000 tấn. Và cũng từ sau 1975 ngành cà phê Việt nam mới đi vào thời kỳ phát triển mạnh mẽ.

Năm 1980

Một chương trình phát triển cà phê ở Việt nam do công ty cà phê ca cao thuộc Bộ nông nghiệp và Công nghiệp thực phẩm xây dựng được trình lên Thường trực Hội đồng Bộ trưởng và được cho phép thực hiện. Tiếp đó là một loạt các hiệp định hợp tác sản xuất cà phê được ký kết giữa chính phủ Việt nam và Liên xô (trồng mới 20.000 ha cà phê), CHDC Đức (10.000 ha), Bungary (5.000 ha), Tiệp khắc (5000 ha) và Ba lan (5000 ha).

Năm 1982

Liên hiệp các xí nghiệp cà phê Việt Nam (LH-XN-CPVN) được thành lập theo Nghị định 174 HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng với sự tham gia của 3 sư đoàn quân đội và một số công ty thuộc Bộ Nông nghiệp và các địa phương Đắk Lắk, Gia Lai – Kon Tum. Chương trình phát triển cà phê được mở rộng trên các tỉnh Tây nguyên và Đông nam bộ. Loại cà phê được chọn để mở rộng diện tích là cà phê Robusta, một giống cà phê ưa điều kiện khí hậu nóng ẩm và nhất là ít bị tác hại của bệnh gỉ sắt.

Năm 1986 - Bước ngoặc

Năm 1986 LH-XN-CPVN (Liên hiệp Xí nghiệp cà phê Việt Nam) được sự hỗ trợ của các Bộ nông nghiệp, Kế hoạch, Tài chính, Ngoại thương,… đã tổ chức Hội nghị phát triển cà phê trong các hộ gia đình nông dân ở các tỉnh Tây nguyên, duyên hải miền Trung và Đông nam bộ, gọi là Hội nghị cà phê nhân dân lần thứ nhất. Cùng với chính sách mới và có sự kích thích mạnh mẽ của giá cà phê trên thị trường quốc tế đang lên cao lúc đó, ngành cà phê Việt nam đã phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ.

Từ năm 1986, Chính phủ Việt Nam đã tập trung nguồn lực đầu tư vào lĩnh vực cà phê, nhằm mục đích chuyển đổi cà phê thành một ngành nông nghiệp quan trọng. Ngoài các trang trại nhà nước, Chính phủ cũng khuyến khích các hộ gia đình cá nhân trồng cà phê. Do đó, sản xuất cà phê tại Việt Nam đã bùng nổ về diện tích, sản lượng và giá trị xuất khẩu.

Cho đến những năm cuối thập niên 80 của thế kỷ 20 ngành cà phê Việt nam mới đưa giống cà phê Catimor thuộc chủng loại cà phê Arabica vào sản xuất. Từ đó cà phê Arabica bắt đầu được trồng ở Việt nam với giống chống bệnh gỉ sắt Catimor. Đó cũng là cơ sở để Tổng công ty cà phê Việt nam xây dựng chương trình phát triển cà phê Arabica ở Việt nam.

4. Cà phê Việt Nam sau hơn một thế kỷ - Sự chuyển mình khó tin

Vào cuối những năm 1990 Việt Nam trở thành nhà sản xuất cà phê hàng đầu ở Đông Nam Á và sau Brazil, nhà sản xuất và xuất khẩu cà phê xanh thứ hai trên thế giới. Sản xuất cà phê đều đặn gia tăng 20% -30% mỗi năm trong những năm 1990, với những vườn cà phê nhỏ được trồng trên nửa triệu mảnh đất (từ hai đến ba mẫu). Điều này đã giúp xoay chuyển mạnh mẽ nền kinh tế. Trong công cuộc cải cách, ngành cà phê đã được quốc hữu hóa, phát triển mạnh tại các tỉnh Tây Nguyên, doanh nghiệp tư nhân được nhân rộng, dẫn đến một sự phát triển đột biến của ngành công nghiệp chế biến cà phê. Mối liên kết hợp tác giữa người trồng, sản xuất và nhà nước đã đem đến kết quả trong việc xây dựng thương hiệu cà phê thành phẩm và xuất khẩu sản phẩm bán lẻ. Mà điển hình có thể kể đến là cà phê Trung Nguyên vào năm 1996 và Highlands Coffee vào năm 1998.

5. Kết luận:

Cà phê Việt Nam từ năm 1857 - nay đã trải qua nhiều giai đoạn chuyển mình. Cho đến nay cũng đã cho thấy rằng Việt Nam là mảnh đất cà phê trù phú với những loại cà phê thơm ngon, đậm vị được cả thế giới biết đến. Nét văn hoá cà phê từ lâu đã thấm sâu vào con người Việt Nam, cà phê trở thành thức uống vào mỗi buổi sáng cho người Việt, bất kỳ nơi đâu cà phê cũng có thể hoà mình vào được, từ ly cà phê ven đường cho đến những nhà hàng sang trong. Cà phê Việt Nam luôn là vậy đồng hành cùng những bác nông dân trồng cà phê chất phác, đưa biết bao những số phận lận đận thoát khỏi vũng lầy nghèo khó. Cà phê là người bạn tuyệt vời chẳng biết hờn dỗi, chỉ biết tâm sự cùng ta trong lúc chúng ta vui cũng nhưng những lúc mệt mỏi, buồn bã.

S54 - Coffee

0 / 5 (0Bình chọn)
Bình luận
Gửi bình luận
Bình luận